Vào đầu thập niên Tám mươi, ông Ted Schweitzer là người Mỹ đầu tiên đã cập bến vào một đảo sào huyệt hải tặc và mục kích chuyện 238 thuyền nhân Việt Nam bị đắm ghe, dạt vào đấy. Có 80 người bị giết, tất cả các phụ nữ đều bị hãm hiếp và buộc khiêu vũ khỏa thân cho chúng xem. Ông Schweitzer can thiệp yêu cầu họ chấm dứt tấn tuồng vô nhân đạo này thì bị bọn cướp xúm lại đánh đập đến như đã chết. Thật may mắn mà ông còn sống sót để thuật lại. Khi tỉnh lại, ông thấy trước mắt những cánh tay, đùi chân còn rải rác đây đó. Đấy, bằng chứng có vụ ăn thịt người.
Khi quân đội Hoa Kỳ thất trận tháo lui, không còn ai muốn ở lại Việt Nam nữa. Những người thuộc giới cha chú đã được các bạn Mỹ chở đi trước, sót lại những kẽ bất hạnh thì chỉ còn bám víu vào những con thuyền mong manh hướng vịnh Thái Lan. Trên những chuyến vượt biên này họ đã xuất kỳ bất ý viết lại những mẩu chuyện có thật về hải tặc thuộc thế kỷ 20.
Hoàn cảnh vào thời đó rất thuận lợi cho bọn cướp của giết người trên biển cả, còn hơn những chuyện hải tặc trong lịch sử thế giới. Dân chài xứ Thái rất nghèo túng, luôn luôn tìm cơ may kiếm thêm chút tiền còm. Trong khi chính quyền cộng sản Việt Nam làm ngơ trước cơ sự, thì chính phủ Thái lại không muốn đón nhận những đợt tàu chở thuyền nhân ngày càng đông thêm. Không mấy ai quan tâm đến những lời tường thuật về vụ hải tặc. Chỉ đến khi những vụ cướp bóc giết người quá tàn nhẩn dã man xảy ra, và lại còn phải chịu áp lực quốc tế và Hải quân Hoa Kỳ thì chính phủ Thái mới cho mở vài vụ điều tra. Đến lúc đó thì hàng ngàn thuyền nhân đã bị cướp, hảm hiếp, giết chết trên biển cả. Sau đây là một vài vụ cướp bể đã được điều tra:
Cô Nguyễn Phan Thúy cùng với mẹ, dì và người em gái đã bỏ tiền ra mua chổ trên tàu để vượt trốn. Sau mười ngày lênh đênh trên biển cả, tàu bị mắt cạn, hết nước, hết cái ăn. Hải tặc đến bắn chết người dì. Một ông già có răng vàng bị chúng lấy kìm vặn khỏi miệng. Một người đàn bà đang có bầu bị chúng ném xuống biển. Các người sống sót bị chúng lột hết quần áo, xua cả lên bờ, và tầu bị nhận chìm. Chúng bắt các phụ nữ xếp hàng. Cô Thúy cùng một cô gái khác tên Liên bị chúng lựa ra rồi đưa sang chiếc thuyền đánh cá của chúng. Suốt ba tuần lễ sau đó, hai cô liên tiếp bị hảm hiếp. Cô Liên chịu không nổi, bị chúng chán rồi vứt cô xuống biển; còn cô Thúy thì chúng đem bán cho một động mải dâm trong làng mang tên là "Phòng đấm bóp nơi thiên đường". Ở đây cô mang thai và vị người ta lấy một que tre trục bào thai ra. Cuối cùng cô thoát được và được cơ quan Cứu Trợ Liên Hiệp Quốc tiếp nhận.
Năm 1989, một chiếc ghe chở 84 thuyền nhân bị hải tặc đến cướp. Tất cả đàn bà và trẻ con bị chuyển qua thuyền hải tặc và từ đó không còn nghe một tin gì về số phận họ nữa. Những người đàn ông thì bị nhốt dưới khoang tầu rồi, từng người một, chúng lôi lên đập cho đến chết. Sau cùng, những người còn lại liều mình sấn vào bọn cướp thì tầu hải tặc nhào đến đâm vào tầu thuyền nhân cho chìm đi, Một số người cố thoát liền bị chúng dùng cây sào nhận chìm xuống nước. Còn lại 13 người thoát chết nhờ bơi ra xa và được bóng đêm che phủ.
Vào tháng 4 năm 1989, có bảy tên hải tặc trang bị súng ống, đao búa đến tấn công một chiếc tầu nhỏ chở 129 thuyền nhân. Tất cả đàn bà đều bị hảm hiếp, đàn ông bị sát hại, trừ một người tên là Phạm ngọc Man Hung (hình chụp ảnh đang nhận diện các tên hải tặc). Anh này sống sót nhờ bám được vào một chiếc bè kết thành bởi ba xác chết.
Cuối cùng chính phủ Thái bị Cơ quan Cứu Trợ Quốc Tế cưởng bách tìm biện pháp đối phó. Các tầu đánh cá phải đăng ký và số đăng ký phải ghi rõ bằng chữ lớn ngay mủi tầu. Các tầu đều phải được chụp hình lúc ra khơi và lúc về cảng. Biện pháp này đã khiến nhiều hải tặc ngã lòng, lo sợ, nhưng những bọn còn lại bèn trở nên tàn nhẫn, hung dữ hơn trước! Chúng thủ tiêu hết mọi nhân chứng để không còn một ai nhận diện được chúng nữa.
Người thuyền trưởng dũng cảm
Sáng ngày 23 tháng 6 năm 1979, thuyền trưởng Cees Hoek của tàu De Neddrill 2 nhìn thấy một chiếc thuyền con đã gần như muốn chìm bám sát vào mạn tàu. Chiếc thuyền này tuy nhỏ bé, nhưng đem theo thân phận của hơn 300 thuyền nhân đã hoàn toàn kiệt sức, mình mẩy của họ khi ấy nhơ nhúa vì ói mửa trộn lẫn với phân và nước tiểu. Một trong những thuyền nhân trên con thuyền xấu số ấy là bà KHANG. Bà kể là một tuần trước đó bà đã cùng chồng bà bốn cậu con trai lên chiếc thuyền mang số LA9127 này tại cảng Vũng Tàu. Hơn 300 người, đa số là phụ nữ và trẻ em, ngồi như cá hộp trên chiếc thuyền chỉ dài có 14 thước, được công an tổ chức cho đi bán chính thức. Suốt chuyến đi, bà chỉ có chỗ chỉ đủ để ngồi xổm, ôm cậu con trai út trong lòng. Hồi tưởng lại về những ngày ấy, bà nói: "Chúng tôi chẳng cần biết mình sẽ đi đến chốn nào. Chỉ cần làm sao có được tự do là đủ rồi".
Khi ấy, tàu De Neddrill 2 đang neo ở vùng gần bờ biển Việt Nam để làm công tác khoan dầu cho một công ty liên doanh Việt Nam và Đức. Trên tàu của thuyền trưởng Hoek, là người Hòa Lan, cũng có cả vài người Việt có nhiệm vụ theo dõi mọi hoạt động trên tàu. Chính những người Việt này đã phản đối thuyền trưởng Cees Hoek khi ông định cứu những thuyền nhân và cũng chính là đồng bào của họ. Trong lúc thuyền trưởng Hoek tranh cãi với những 'công an' đội lốt nhân viên Việt Nam này, thì thuyền LA9127 bất ngờ chìm nghỉm. Mọi người trên thuyền thất kinh, vội vã tìm cách thoát ra khỏi con thuyền xấu số này. Thủy thủ đoàn đã vội vã tiếp cứu họ bằng phao cứu cấp và ca nô, nhưng không tài nào cứu được tất cả mọi người. Một thuyền viên Hòa Lan trên tàu là ông Beekman kể là ông không có cách nào hơn là phải móc mũi nhiều người mới lôi họ được lên tàu, vì họ đã quá kiệt sức, không tài nào chộp lấy cánh tay ông. Số người ngoi ngóp dưới biển nhiều quá, đến nỗi ông phải chọn cứu người này, mà không kịp cứu người kia. Bà KHANG khi ấy cũng văng xuống biển, nhưng sau đó may mắn được vớt lên tàu Hòa Lan. Trong khoảng khắc kinh hoàng ấy, chẳng may cậu con trai út của bà bị thất lạc. Những thủy thủ trên tàu đã phải xót xa chứng kiến cảnh gần 80 thuyền nhân phải chết đuối. Hình ảnh kinh hoàng này sau nhiều năm vẫn in đậm trong tâm trí họ.
Sau khi vớt được số thuyền nhân này lên tàu, thuyền trưởng Hoek phải chịu áp ức nặng nề của đám 'công an' Việt Nam trên tàu. Bọn này đòi thuyền trưởng Hoek phải trao trả ngay những thuyền nhân này cho chính quyền VN. Thế nhưng thuyền trưởng Hoek một mực không chịu. Trong lúc ấy, công an biên phòng VN còn đưa tàu có súng máy đến kèm sát tàu để uy hiếp. Nhưng thuyền trưởng Hoek đã ra lệnh không cho một ai có vũ khí lên tàu. Nếu không nghe lời ông, thì ông sẽ có biện pháp. Thủy thủ đoàn dưới quyền thuyền trưởng Hoek lúc ấy cũng rất tức giận bọn công an VN, họ sẵn sàng ra tay bảo vệ thuyền nhân, nhất là sau khi họ chứng kiến thảm cảnh mấy mươi thuyền nhân phải bị chết đuối trước mắt mình.
Sau đó trước sự cứng rắn của phía Đức và Hòa Lan, phía VN phải nhượng bộ, cho phép phía Đức và Hòa Lan mua một chiếu tàu trị giá 300.000 đô la ở Vũng Tàu để chở những thuyền nhân đã được cứu vớt, một lần nữa đến bến bờ tự do. Con tàu mới này mang số hiệu VT999.
Đoạn Kết của Bi Kịch Thuyền Nhân Người Việt
Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lên thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự (ODP) ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tàu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.
Đoạn kết thúc nhân đạo được khởi từ những sự kiện sau đây: Tin tức thời sự loan báo ba thuyền tỵ nạn với 443 người mới đến Hồng Kông bị cảnh sát Macao kéo ra biển khơi gặp trận bão Hope chết không còn người nào. Nhưng người Việt vẫn tiếp tục ra đi. Riêng tháng 5 và 6, năm 1979 đã có 110 ngàn người vượt biển. Bão tố, hải tặc và các tàu viễn dương không cứu vớt đã làm cho số người đến các trại vào tháng 7 chỉ còn 22 ngàn người. Không những các tàu buôn dân sự làm ngơ mà ngay cả tàu chiến của Mỹ trên Thái Bình Dương cũng không cứu thuyền nhân. Xót đau vì cùng máu đỏ, da vàng, người Việt ở Mỹ và khắp nơi kéo về Hoa Thịnh Ðốn thắp nến cầu nguyện trước Bạch Cung.
Nước mưa hòa trong nước mắt nhỏ giọt xuống những ngọn nến lung linh. Những linh mục và những thượng tọa đi lại đọc kinh suốt đêm. Từ cửa sổ trên lầu của Bạch Cung, Tổng Thống Jimmy Carter đã nhìn thấy tất cả thảm kịch biển Ðông. Lòng người từ nhân thúc dục – Lệnh từ Phủ Tổng Thống Hoa Kỳ được ban hành. Bộ An Sinh và Xã Hội sẽ nhận cấp khoản Tỵ Nạn Việt Nam vào Mỹ từ 7 ngàn nay tăng lên 14 ngàn một tháng. Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Ðệ Thất Hạm Đội dành riêng năm tuần dương hạm để cứu vớt thuyền tỵ nạn. Tất cả các chiến hạm đều phải cứu thuyền nhân hoặc tiếp tế rồi báo tin cho các con tàu trách nhiệm khác.
Bức hình gây chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông Việt Nam được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của gia đình trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ vớt người tỵ nạn bay về Việt Nam, cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển, người người vượt biển. Ðó cũng là năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng ký.
Tổng Thống Jimmy Carter, còn đi xa hơn một bước nữa. Nhân dịp hội họp với Thủ Tướng Do Thái Bergin, vị nguyên thủ Mỹ đã đưa ra vấn đề thuyền nhân Việt Nam. Thủ Tướng Bergin nồng nhiệt đáp ứng: “Nước Do Thái đã có những kinh nghiệm riêng về vụ việc này. Năm 1939, trước khi thế chiến đệ nhị bùng nổ, con tàu The St. Louis chở 900 dân Do Thái trốn khỏi Ðức Quốc đã bị xua đuổi trên khắp mọi hải cảng. Không một nước nào nhận. Ngày nay tuy chúng tôi là một nước nhỏ, mới lập quốc nhưng sẵn sàng chào đón thuyền nhân Việt Nam”. Tháng 10 năm 1979, một tàu Do Thái trên đường đi Nhật đã cứu được 60 thuyền nhân. Thuyền trưởng nói rằng các bạn phải cảm ơn Carter. Tính đến nay, dù là quốc gia sống giữa vùng Trung Ðông khói lửa sôi động, Do Thái cũng có cả ngàn thuyền nhân Việt Nam lập nghiệp.
Năm 1981, Tổng Thống Carter mãn nhiệm kỳ, đến năm 1988 có một thuyền trưởng chiến hạm USS Dubuque trên đường qua Trung Ðông đã gặp con tàu vượt biên ra đi từ Bến Tre với 110 người ngày 22 tháng 5-1988. Sau nhiều giông bão, gặp nhiều tàu đại dương nhưng không được cứu, đến ngày thứ 19 gặp tàu chiến Mỹ thì thuyền nhân hoàn toàn kiệt quệ. Hạm trưởng không hề biết lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ 8 năm về trước nên ông chỉ tiếp tế nước và thực phẩm nhưng không vớt. Con thuyền Bến Tre trôi dạt trên đại dương trước sau tổng cộng 37 ngày, chỉ còn sống 52 người sau khi đã ăn thịt những người khác.
Tàu đánh cá Phi cứu vớt con thuyền Bến Tre khốn khổ đưa về đảo Bolinao. Ông Hạm trưởng chiến hạm USS Dubuque phải ra tòa quân sự của hải quân vì không làm tròn bổn phận. Nạn nhân còn lại của thảm kịch Bolinao phải ra tòa làm nhân chứng. Tên hòn đảo hoang trên Thái bình Dương với 52 người còn sống. Sống bằng thân xác của gia quyến và đồng loại. Bolinao 52 chỉ là một trong hàng ngàn thảm kịch khác đã xảy ra mà chúng ta không bao giờ biết hết. Nếu như không có một người như Jimmy Carter vào những ngày cuối thập niên 70 niềm đau thương của biển Ðông còn chất ngất đến chừng nào.
* Lịch sử thuyền nhân VN đau đớn đến vậy. Nhưng CSVN ko thừa nhận chúng gián tiếp gây ra, và việc chúng ngăn cản ng dân xuất cảnh theo đường chính thống đã dẫn đến những thảm cảnh này. Ngày nay hễ ai nhắc đến thuyền nhân VN là CSVN chối bỏ và gieo rắc vào đầu những ng dân VN trong nước rằng thuyền nhân là những ng vượt biên phản quốc. Những bia, tượng tưởng niệm thuyền nhân ở các nước Philippin, Malaysia, Indonesia thì bị CSVN tìm moi cách phá bỏ, đập đục như 1 cách chối bỏ tội ác...
Nguồn http://